Trên bảng xếp hạng về mức độ đa dạng sinh học trên thế giới, Việt Nam xếp hạng thứ 14. Tại Đông Nam Á, quốc gia có mức độ đa dạng sinh học cao nhất là Indonesia.
| ||
Theo đánh giá của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Việt Nam là một trong những quốc gia có mức độ đa dạng sinh học cao nhất thế giới với nhiều hệ sinh thái khác nhau, với hơn 100 loài chim và hơn 10% các loài thực vật chỉ có ở Việt Nam. Việt Nam có chỉ số đa dạng sinh học 221,77.
Trên bảng xếp hạng về mức độ đa dạng sinh học trên thế giới, Việt Nam xếp hạng thứ 14. Tại Đông Nam Á, ba quốc gia có mức độ đa dạng sinh học cao nhất lần lượt là Indonesia, Myanmar và Việt Nam.
So với năm 2022, Việt Nam đã có sự thăng hạng trong danh sách các quốc gia giàu đa dạng sinh học. Điều này đã có thấy sự thay đổi và nhiều thành tựu đáng ghi nhận trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học và thiên nhiên.
Theo Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học, Việt Nam là quốc gia thứ 50 trên thế giới và đầu tiên của khu vực ASEAN chính thức tham gia Công ước Ramsar từ năm 1989. Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam có 9 khu đất ngập nước được Ban thư ký Công ước Ramsar công nhận là khu đất ngập nước (Ramsar) thế giới gồm: Vườn quốc gia Xuân Thủy (Nam Định), Khu hệ đất ngập nước Bàu Sấu nằm trong Vườn quốc gia Cát Tiên (Đồng Nai), Vườn quốc gia Ba Bể (Bắc Kạn), Vườn quốc gia Tràm Chim (Đồng Tháp), Khu bảo tồn đất ngập nước Láng Sen (Long An), Vườn quốc gia U Minh Thượng (Kiên Giang), Vườn quốc gia Mũi Cà Mau (Cà Mau), Vườn quốc gia Côn Đảo (Bà Rịa-Vũng Tàu), Khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long (Ninh Bình).
Ngoài ra, Việt Nam còn có 1 vùng chim nước di cư quan trọng quốc tế tuyến đường bay Australia - Đông Á (EAAFP); 11 khu dự trữ sinh quyển thế giới được UNESCO công nhận; 12 vườn di sản ASEAN - đứng đầu khu vực và hơn 101 khu vực đa dạng sinh học quan trọng.
![]() |
Việt Nam cũng được đánh giá là một trong những khu vực quan trọng bậc nhất trong mạng lưới các tuyến đường bay chim di cư và các loài chim đặc hữu với 63 vùng chim quan trọng toàn cầu, 07 vùng chim đặc hữu.
Đặc biệt, về hệ động thực vật, đến nay, Việt Nam có khoảng 62.600 loài sinh vật đã được xác định, trong đó khoảng 3.500 loài động vật không xương sống và cá nước ngọt, 1.932 loài động vật có xương sống trên cạn và có trên 11.000 loài sinh vật biển . Hàng năm, nhiều loài mới tiếp tục được phát hiện và ghi nhận có tồn tại Việt Nam.
Diện tích rừng cũng ngày càng tăng lên, nếu như năm 1995 (ngay sau khi Việt Nam gia nhập Công ước Đa dạng sinh học), độ che phủ rừng chỉ đạt 28,2% thì đến nay, độ che phủ đã lên tới 42,02%.
Tuy nhiên, các chuyên gia của Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên tại Việt Nam (WWF Việt Nam) đánh giá giá trị đa dạng sinh học của Việt Nam đang xuống cấp và thoái hóa.
Các nguyên nhân gây ra suy giảm đa dạng sinh học chủ yếu do gia tăng dân số và áp lực của việc chuyển đổi sử dụng đất; khai thác tài nguyên thiên nhiên kém bền vững; tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu cũng như ô nhiễm môi trường. Nhìn từ công tác quản lý, hệ thống chính sách, pháp luật còn phân tán, thiếu đồng bộ, tính hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Nhận thức và ý thức của các cấp, các ngành, người dân về bảo tồn đa dạng sinh học còn hạn chế...
Để bảo tồn đa dạng sinh học và dịch vụ sinh thái hiện có, Việt Nam cũng đang tích cực thực hiện các kế hoạch, triển khai nhiều hoạt động, chương trình mục tiêu... Đồng thời, Việt Nam cũng đang nỗ lực hoàn thiện hành lang pháp lý để hỗ trợ công tác bảo tồn đa dạng sinh học
Theo Chiến lược Quốc gia về đa dạng sinh học đến 2030, tầm nhìn đến 2050, đến cuối thập kỷ, Việt Nam gia tăng diện tích hệ sinh thái tự nhiên được bảo vệ; bảo tồn, sử dụng bền vững đa dạng sinh học.